Tthứ nhất, việc bất đồng quan điểm nếu kéo dài dai dẳng cho thấy có một vấn đề lớn chưa được hoặc không giải quyết được. Bởi nếu không ta sẽ không còn việc gì để làm nữa. Vì thế, cố gắng tìm ra những phần liên quan cùng lúc với việc xác định sách liên quan thường là việc rất khó.
Cách hiểu đa nghĩa này không chỉ là dạng bài tập cơ bản trong nghệ thuật đọc sách, mà còn có xu hướng tạo cho trí óc ta thói quen luôn ý thức được rằng một đoạn văn phức tạp có thể chứa đựng rất nhiều lớp nghĩa khác nhau. Mỗi ngày có vô số sách báo viết về các chủ đề như sắc tộc, tội phạm, thực thi pháp luật, nghèo đói, giáo dục, phúc lợi xã hội, chiến tranh và hoà bình… Phần lớn các tác phẩm này đều mượn tư tưởng và ngôn ngữ từ các ngành khoa học xã hội. Nhưng tất cả sự nỗ lực đó sẽ là lãng phí nếu họ không biết làm sao để đọc sách nhanh hơn người khác.
Thông tin, kiến thức mà tác phẩm lịch sử và triết học cung cấp không giống nhau. Tuy nhiên, chỉ biết suy nghĩ của tác giả thôi chưa đủ. Trong chương trước, chúng tôi nói rằng nếu tác giả không giải thích được nhận định của mình, chúng chỉ là ý kiến của cá nhân tác giả.
Họ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa ngôn từ, cố gỡ mớ bòng bong của câu cú để rồi nhanh chóng từ bỏ việc đọc và kết luận rằng thơ hiện đại quá khó đọc, như họ đã lường trước. Tương tự, vấn đề về hiểu biết thường mang tính lý thuyết nhưng vẫn có sách dạy bạn nghĩ như thế nào. Bạn không thể xác định được các từ khoá trong một đoạn nếu không hiểu nội dung của cả đoạn.
Bên cạnh đó, một vở kịch còn khác một cuốn tiểu thuyết ở chỗ vở kịch được thể hiện toàn bộ bằng hành động và lời thoại (trừ một số ngoại lệ sẽ được nói đến ở phần sau). Khi ngữ nghĩa chưa rõ ràng coi như hoạt động giao tiếp chưa xảy ra hoặc xảy ra không trọn vẹn. Vào thời trung cổ, đã từng có những bài phê bình nổi tiếng về các tác phẩm của Aritotle dài hơn chính tác phẩm được bình luận.
Lịch sử không phổ quát được như vậy. Nó được Nietzsche và một số nhà triết học người Pháp hiện đại khác dùng trong các tác phẩm như Thus Spake Zarathustran (Zarathustra đã nói thế). Tuy nhiên, các triết gia vĩ đại đều có những nguyên tắc chủ đạo làm nền tảng cho những tác phẩm của mình.
Họ nhanh chóng từ bỏ đọc tác phẩm vì nghĩ rằng mình không thể nhớ được các mối quan hệ phức tạp và cũng không thể phân biệt ai với ai. Nếu không có sự phân tích, những khía cạnh của vấn đề sẽ không hiện hữu một cách rõ ràng. VẠCH NHỮNG ĐƯỜNG THẲNG NGOÀI LỀ: Để nhấn mạnh những nhận định đã được gạch dưới, hay chỉ rõ một đoạn quá dài không gạch dưới được.
Quy tắc này không nhằm mục đích tìm ra cấu trúc của cuốn sách mà hướng tới việc phân tích nội dung sách hay thông điệp mà tác giả gửi gắm trong đó. Rõ ràng, từ điển là một cẩm nang hoàn hảo vì nó chỉ cho bạn cái gì đáng chú ý và cách giải mã các ký hiệu viết tắt dùng để diễn tả bốn loại thông tin về từ. Ba lời nhận xét phê bình đầu tiên liên quan đến độ chính xác trong các ý kiến và suy luận của tác giả.
Giờ đây, chúng ta cũng có thể trả lời được các câu hỏi tương tự về cuộc thảo luận xoay quanh vấn đề đang được quan tâm trong đọc đồng chủ đề. Tất nhiên, nếu một số nguyên tắc được chấp nhận và cách tư duy dựa trên các nguyên tắc đó có sức thuyết phục thì có cơ sở để chấp nhận các kết luận, ít nhất cũng như chấp nhận các nguyên tắc. Chúng xuất hiện vì độc giả không biết nên làm gì khi tiếp cận một cuốn sách khó nhưng lại đáng đọc.
Xét trên phương diện này, đây là kiểu đọc chủ động nhất. Điều phân biệt giữa chúng ta với các triết gia là các triết gia thường suy nghĩ một cách mạch lac, họ đặt những câu hỏi có tính tìm tòi và suy nghĩ kỹ về các kinh nghiệm để tìm ra câu trả lời. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là hai phương tiện này cần được sử dụng một cách thông minh và ở mức độ vừa phải vì hai lý do.